Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016

Thời đại Hồ Chí Minh: làm nữ sinh phải bị cưa chân "không vi phạm quy trình"!

CTV Danlambao - Trong việc một nữ sinh lớp 10 bị cưa chân bởi sự tắc trách của Bệnh viện đa khoa Cư Kuin, Sở Y tế Đắk Lắk nhận định rằng Bệnh viện Cư Kuinkhông vi phạm quy trình khám chữa bệnh. Việc dẫn đến hậu quả làm cho bệnh nhân bị cưa mất một chân chỉ là “có sai sót trong quá trình điều trị do chuyên môn hạn chế”.

Nhắc lại sự việc, vào ngày 6-3-2016, em Lê Thị Hà Vi, 16 tuổi, bị tai nạn giao thông và được đưa đến bệnh viện đa khoa huyện Cư Kuin. Sau khi khám nghiệm, BS Y Tâm tại đây kết luận em bị gãy mâm chày ở đầu gối bên phải và ra chỉ thị chỉ bó bột chân cho Hà Vi. Mặc dù sau đó Hà Vi đau đớn, vài ngày sau chân sưng phù, tím tái, cha mẹ em nhiều lần đi tìm gặp BS Y Tâm và giám đốc bệnh viện là ông Nguyễn Văn Tâm trình bày sự việc và đều được trấn an “không sao đâu”, “bệnh viện đã từng điều trị cho nhiều trường hợp như vậy nên cứ yên tâm...” Tuy nhiên, tình trạng của Hà Vi đã trở thành nghiêm trọng, gia đình phải xin chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy. Lúc đó thì đã quá muộn, chân em Hà Vi đã bị tắc mạch máu, hoại tử chân, các bác sĩ tại bệnh viện Chợ Rẫy buộc phải cắt bỏ 1/3 chân phải để bảo đảm tính mạng của em.

Ngày 18-3-2016, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã đến gia đình Hà Vi thăm hỏi và hứa sẽ có trách nhiệm với bé Vi và gia đình về vụ việc này.

Tuy nhiên, đến nay thì lời hứa của bà Bộ trưởng y tế đã được thể hiện một cách vô trách nhiệm và tàn nhẫn qua việc Sở Y tế Đắk Lắk nhận định rằng Bệnh viện Cư Kuin không vi phạm quy trình khám chữa bệnh.

Chúng ta thấy gì trong báo cáo của Sở Y tế Đắk Lắk - Bệnh viện đa khoa Cư Kuin không vi phạm quy trình khám chữa bệnh nhưng “có sai sót trong quá trình điều trị do trình độ chuyên môn hạn chế, khi có diễn biến xấu xảy ra đã đã không được xử trí kịp thời”!?

Thứ nhất: trình độ chuyên môn hạn chế đồng nghĩa với ngu dốt, không đủ kiến thức y khoa để chữa bệnh.

Thứ hai: không xử trí kịp thời tức là quá sai sót trong quy trình khám chữa bệnh.

Kết luận thanh tra của Sở Y tế Đắk Lắk nói rằng việc tiếp nhận, điều trị cho bệnh nhân Vi là kịp thời, chu đáo. 

Điều này là tiêu chuẩn tối thiểu của một bệnh viện, nhưng chữa trị như thế nào là chuyện khác... 

Cũng theo Sở Y tế Đắk Lắk: Tuy nhiên, sau khi hoãn mổ, bệnh nhân không được theo dõi liên tục các dấu hiệu chèn ép khoang trong thời gian sau đó. Các bác sĩ trực tiếp điều trị chưa ý thức cảnh giác phòng, chống hội chứng chèn ép khoang cấp tính. Do đó bệnh nhân chưa được thăm khám các nội dung phù hợp với bệnh cảnh hiện tại...

Đây là một kết luận láo khoét vì chính gia đình đã nhiều lần đi tìm gặp BS Y Tâm và giám đốc bệnh viện là ông Nguyễn Văn Tâm trình bày sự việc và đều được trấn an “không sao đâu”, “bệnh viện đã từng điều trị cho nhiều trường hợp như vậy nên cứ yên tâm...”.

Sở Y tế Đắk Lắk khẳng định, bác sĩ Y Tâm được cấp chứng chỉ hành nghề chữa bệnh nội khoa lại phân công về... khoa ngoại và điều trị ban đầu cho Hà Vi là không đúng chuyên môn.

Cử một bác sĩ không đúng chuyên môn để chữa trị bệnh nhân mà tuyên bố không vi phạm quy trình thì còn thứ gì trên đời này để nói là vi phạm!?

Và rồi Sở Y tế Đắk Lắk yêu cầu bệnh viện Cư Kuin phải: tổ chức họp kiểm điểm đối với cá nhân, tập thể liên quan đến sai sót khiến bệnh nhân Hà Vi phải cưa chân. Thế là huề cả làng. Một tập thể làm sai từ bác sĩ đến giám đốc bây giờ đóng cửa, tự họp, tự kiểm điểm với nhau.

Trong khi các ngài họp hành cho qua chuyện thì một chân của em học sinh lớp 10 xinh đẹp đã bị cắt bỏ, em sống suốt cuộc đời còn lại của mình trong cảnh tật nguyền.

18.06.2016

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

2/9 - Lối xưa xe ngựa “Sài Gòn cũ”


Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) - “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải...” - Dương Thu Hương.

“Một câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” - Trương Tấn Sang

*
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương 
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
Nước còn cau mặt với tang thương 
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ 
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường” (Bà Huyện Thanh Quan) 
Bài thơ tác giả “hoài cảm” sau năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi, niên hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long (Hà Nội) chỉ còn là “cố đô” - Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng. 
Bối cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông” một hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong trái tim của gần ba mươi triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù khói lửa chiến chinh từ phía Bắc, bên kia vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng cũng cố gắng vươn lên trong những khoảnh khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi giữa thập niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi, nhưng những gì có được cũng đã làm cho những trái tim còn thuần khiết “tính người” như nhà văn nữ miền Bắc Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn thức rơi lệ bởi cảm xúc trong ngậm ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố Sài Gòn 30/4/1975. Nhà văn này tâm sự…. 
Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. 

Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp lắm vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải. (Nguồn: Nhật Báo Người Việt). 
Và mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như “tâm sự” rằng (nguyên văn): “Một câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày Độc lập 2/9 ấy?...” thì những dòng của viết bài này ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa” với đồng bào, nhất là các bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau 1975 thì cũng nhân tiện gửi đến ngài “Tổng thống nước” một số hình ảnh cũ của Sài Gòn ngày xưa, nơi mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng là “chủ nhân ông”, hít thở không khí Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?...” thưa ông!?... 
Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn còn trên đường Hàm Nghi - Sài Gòn 
Nhưng vóc dáng một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này (1960-65) Bangkok, Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa thể có kịp, và những hình ảnh cũ dưới đây của Sài Gòn một thuở, người dân đang năng động hối hả xây dựng một cuộc sống phồn vinh cho đất nước, cùng nhịp điệu với các quốc gia tự do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong khu vực Asean (Đông Nam Á) mà không tốn một giọt máu nào.


Sài Gòn những năm 1960-1970 (trên), cùng thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội. Không cốt ý bôi bác hay phê phán, bởi Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi buồn đâu của riêng ai! Mà đơn giản, so sánh để khẳng định cái từ ngữ chiêu bài mà những người CSVN đã “lừa bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm kẹp trong đói nghèo, đau thương” là không có thật... mà thời điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện quân sự và chỉ thị cho CSVN phải tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền Nam VN trước khi “cộng sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó là Đông Nam Á, duy nhất trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là lấy “máu xương, lương thực” của nhân dân miền Bắc làm “nhiên liệu” thử nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để tiến xuống phía Nam Châu Á. Nhân dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống “hắt hiu, u buồn” bên trong bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người, duy nhất, là có một thứ gì đó cho vào bụng và mơ... một chiếc xe đạp! Tất cả họ, đều như là những con “ốc vít” trong một cổ máy chiến tranh, không có ngoại lệ, không ai được phép “sáng tạo” tư hữu cho bản thân và gia đình ngoài “Bác và đảng cộng sản”… 
Hình ảnh Hà Nội thập niên 1960 – 1970:





Sài Gòn miền Nam - những năm 1960-1970 đang khởi đầu công nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) - một chính sách thức thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ - không có trong kế hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ...
Sài Gòn -1966 - Băng rôn treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi)
Thập niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật” chủ yếu dựa vào thủ công “sức người” bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng cho cổ máy chiến tranh của CSVN rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng. 
24-10-1966 - Các Phu nhân Tổng Thống - bà Thiệu, bà Johnson, bà Kỳ, bà Marcos tháp tùng cùng Phu quân là các tổng thống, thủ tướng tại Philippines, trong phiên họp thượng đỉnh của các nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Ước Liên Phòng Đông Nam Á.
19/5/2010 Bà Phó “PCT/Nước: Nguyễn thị Doan”(áo đen thứ ba bên phải qua) và các “VIP” phụ nữ của CHXHCN/Việt Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Bắc Kinh.
Cách nhau gần nửa thế kỷ - hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều khác biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến chúng ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận! Cũng cần nhắc lại bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây...” 
Nửa thế kỷ cách ngày hôm nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu” người Sài Gòn ngày xưa đó nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu được, đa dạng mái tóc kiểu phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân không còn “cổ cao”, tay áo cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất của thập niên 60-70 là áo dài có “chít eo” ngang hông rất rõ, những chiếc “jup” tây phương sắc màu tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ sinh, sinh viên tóc thề áo trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội miền Nam Sài Gòn thuở ấy có đủ mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm làm đẹp cho chính mình mà không bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều khe khắt nào khác...


Phương tiện xe gắn máy cá nhân phổ biến thông dụng ở thủ đô Sài Gòn ngày đó ngoài các loại xe Vespa, Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet của Pháp thì đa phần là hai loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame cho nữ, nhìn hình ảnh các “bóng hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên đường phố Sài Gòn cách nay nữa thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua - (cô gái có cái bảng nhắc nhở mọi người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng 1967 – Và hai cô gái váy đen bên chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số hiệu 7533 của Sài Gòn thập niên 1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm nghiệm cái lạc hậu độc tài bảo thủ cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời gian gây nên sự trì trệ trong phát triển của dân tộc như thế nào so với những gì chỉ trong một thời gian ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so với các nước láng giềng trong khu vực.

Tương phản khác biệt quá nhiều của khung cảnh, con người Sài Gòn và Hà Nội cùng thời điểm, rất khó khăn và buồn lòng để bình luận khi mà mơ ước lớn lao nhất của mọi người miền Bắc lúc bấy giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm thường Phượng Hoàng Trung Quốc trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu “bồrô” của Pháp là mặt hàng bình dân ở miền Nam buôn bán đầy đường …. 
Hà Nội 1960-70:




Thập niên 1960-70 minh chứng cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài Gòn miền Nam mang tầm khu vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng Không AIR Việt Nam với đội ngũ phi cơ phản lực mới nhất và các phi công chuyên nghiệp đường bay quốc tế mà hãng hàng không cộng sản Trung Cộng lúc bấy giờ chưa sở hữu được. Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng biết gì về hàng không dân dụng ở thời điểm ấy. Người dân và sinh viên Sài Gòn miền Nam hoàn toàn tự do đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài mà không bị ràng buộc bất cứ lý do gì, đó là một điều không tưởng với nhân dân miền Bắc... bị cô lập trong bức màn sắt CSVN.

Nói đến hàng hóa tiêu dùng dân dụng thì tại thời điểm ấy thị trường Sài Gòn miền Nam hàng hóa trù phú chất lượng cao, còn nhiều hơn Trung Quốc, tấp nập bày bán tự do. Tại miền Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ gì để mà so sánh, bởi vì người dân bình thường Sài Gòn thời điểm ấy đang sử dụng quạt máy, tủ lạnh, máy may và TV đen trắng. Trong khi hai mặt hàng mà bất cứ người dân miền Bắc nào cũng mơ ước (như nhà văn Dương Thu Hương nói) là đồng hồ đeo tay và Radio thì thừa mứa ở các quầy hàng khắp miền Nam đến nỗi các hảng sản xuất phải treo bảng quảng cáo trên đường (trong ảnh). Nói cho vui, miền Bắc dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ có hai thứ mà miền Nam không có là (tên lửa Sam 2 và phân người hoại mục).



So với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội - CS/XHCN với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp” xe đạp, mảnh thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó... mà buồn nản đến nao lòng.



Cụ thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai cấp” nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên 1960-70 để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”? (Sài Gòn phương tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động mang lại hiệu quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực không thấy tương lai).


Thượng tầng cấu trúc Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam, Sài Gòn) 
Thời điểm ấy 1960-70 đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh ngày hôm nay. Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện) – Điển hình là một cuộc họp tại thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa (ảnh). Tự Do báo chí với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so với không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3 thế kỷ - CSVN gọi đó là thống nhất tự do dân chủ?

Sài Gòn miền Nam - người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn trọng tri ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước nhớ nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu thế noi theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân tưởng nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).
Ngược lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang Trung (Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ trung Quốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Quốc” tại thủ đô Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng...

Hai hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG bất đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận cho biểu tình. 
Hơn 40 năm sau, 2011, dưới chế độ CSVN tại Hà Nội - Sài Gòn, người dân biểu tình, dù là “yêu nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn áp tàn bạo!


1958 – Quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa – Do QL/VNCH quản lý. 
Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc Việt) dưới sự chỉ đạo của ông HCM, ký công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm trong lãnh hải Trung Quốc.
1974 – Hải quân Trung Quốc xâm lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH – CS Bắc Việt im lặng. 
Trong khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào hải ngoại biểu tình lên án và phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc khắp nơi.

Những cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam - Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc và khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và phản đối Cộng Sản Trung Quốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.


Băng rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974: “Cương quyết tận diệt Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”. 
27-1-1973, CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
Trong đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/1/1973).
Tuy nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975 cộng sản Bắc Việt xua quân tràn vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam, bất chấp chữ ký của họ trước đó trong Hiệp Định Paris. 
1975 - Sinh viên VN tại Pháp “để tang” cho đất nước ngày 30/4.

Những bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ của gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và miền Nam VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày nay.
Họ, CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định Paris - Phá bỏ điều khoản 5: (Thống nhất VN bằng những giải pháp hòa bình), họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng” vượt vĩ tuyến 17 bằng súng đạn, xâm lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ “nửa xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để khỏi vướng bận và “tranh công” vài tháng sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh đỏ” giải tán “tấm bình phong bù nhìn” MTGP/MN này. 
Chính họ - CSVN đã phạm một sai lầm “vĩ đại” bắt cả dân tộc phải huynh đệ tương tàn hy sinh gần 5 triệu người - một thế hệ thanh niên tinh hoa của quốc gia nằm xuống vô nghĩa, đổi lại lấy về một giang sơn của cha ông làm hao hụt đất đai biên giới biển trời hải đảo và còn hơn thế nữa họ đẩy người Mỹ đi để Biển Đông trống trải không ai canh giữ, cho bọn bành trướng Trung Quốc rảnh tay tự do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà họ, CSVN, đang lực bất tòng tâm bắt cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Quốc”
“… Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…” - Nhà văn nữ miền Bắc-Dương Thu Hương.

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Nông dân ‘đang ở đáy xã hội Việt Nam’


Nông dân ‘đang ở đáy xã hội Việt Nam’

dongnai-khieukien

Một nhà nghiên cứu thuộc Viện Xã hội học tại Hà Nội cho BBC hay nông dân đang được xếp dưới cùng trong thang phân tầng của xã hội Việt Nam hiện đại.
Trao đổi với BBC hôm 12/4/2013, nhân dịp BBC vừa công bố bảng xếp loại với  7 giai tầng mới trong xã hội Anh, tiến sỹ Đỗ Thiên Kính, chuyên gia về phân tầng xã hội nói nông dân Việt Nam xếp dưới cùng trong chín tầng lớp xã hội ở nước này.
Ông nói:
“Tầng lớp nông dân là tầng lớp có địa vị thuộc loại thấp kém nhất trong xã hội. Địa vị kinh tế, thu nhập của tầng lớp nông dân cũng thuộc loại thấp, chi tiêu cũng thấp,
“Tình trạng nhà ở, đời sống văn hóa tinh thần cũng kém các tầng lớp khác.”
Ông Kính cũng cho hay tầng lớp lao động phổ thông, giản đơn được dự đoán thuộc nhóm chịu nhiều rủi ro, bấp bênh trong xã hội, trong khi nhóm có trình độ chuyên môn cao, hay tầng lớp trí thức, được xếp ngày một cao trên bảng phân tầng.
Ở trên cùng của bảng này, theo chuyên gia là tầng lớp những người lãnh đạo, những người có chức, có quyền, trong khi nhóm giàu cũng bao gồm những người thuộc tầng lớp này.

Tầng lớp có ‘quyền và tiền’

“Thường nhóm có chức có quyền thì mới có lợi ích và có quyền lực để thu vén cá nhân, trong phân tầng của chúng tôi, chắc chắn chúng tôi xếp vào nhóm quản lý, lãnh đạo – nhóm đứng đầu tiên trong tháp phân tầng”
TS Đỗ Thiên Kính
Khi được hỏi về “nhóm lợi ích” có liên hệ ra sao, như một lát cắt so sánh, trong tháp phân tầng, nhà xã hội học nói đây chính là nhóm “có chức, có quyền”, có “địa vị” và do đó mà có sự liên hệ tới “bổng lộc, lợi ích”. Nhóm này theo ông Kính cũng đứng ở trên cùng của bảng phân loại.
Ông nói: “Thường nhóm có chức có quyền thì mới có lợi ích và có quyền lực để thu vén cá nhân, trong phân tầng của chúng tôi, chắc chắn chúng tôi xếp vào nhóm quản lý, lãnh đạo – nhóm đứng đầu tiên trong tháp phân tầng.”
Trả lời câu hỏi, những người thuộc nhóm giàu là ai và nguồn gốc sự phồn vinh, giàu có vật chất của họ tới từ đâu, nhà xã hội học cho hay trong nhóm này có những người giàu có do làm ăn phi pháp và những người làm ăn đàng hoàng.
“Thực tiễn xã hội Việt Nam, những người giàu có có nhiều dạng. Ví dụ, dạng giàu có phi pháp do tham ô, tham nhũng là một dạng… Hay dạng giàu có do lao động chân chính cũng có.
“Nhưng tóm lại tầng lớp trên, theo tháp phân tầng của chúng tôi, ví dụ tầng lớp lãnh đạo, quản lý, những người chuyên môn cao, doanh nhân… gần như gắn với các thành phần kinh tế nhà nước, vì phần nhiều họ là công chức nhà nước…”

“Những người giàu có có nhiều dạng… Dạng giàu có phi pháp do tham ô, tham nhũng là một dạng… Hay dạng giàu có do lao động chân chính cũng có”
TS Đỗ Thiên Kính

Chuyên gia xã hội học cho hay chưa thể đáp ứng câu hỏi về mối liên hệ giữa “phân tầng trong đảng viên” với bảng phân tầng xã hội hiện tại và đồng ý có thể cần tới một nghiên cứu tách biệt, tuy nhiên ông cho rằng nhóm đứng ở đầu bảng phân loại là nhóm có nhiều quyền lực, từ tài chính, cho tới chính trị.
Ông nói:
“Các tầng lớp trên, vốn tài sản, quyền lực hay vốn văn hóa hiện nhiều hơn các tầng lớp phía dưới” và “tầng lớp bên trên chính là tầng lớp đang lãnh đạo xã hội.”
Về giới trẻ và tầng lớp trung lưu, ông Kính nói:

“Nhóm trẻ tất nhiên không thể leo lên các tầng lớp trên được, cùng lắm có thể thoát khỏi tầng lớp dưới và gia nhập những tầng lớp giữa. Ví dụ có thể là thợ thủ công, hoặc nhân viên, hoặc chuyên môn ở trình độ thấp hơn… Nhóm trẻ chỉ ở những tầng lớp giữa thôi.”
Còn về mức độ tiêu dùng như một đặc điểm xếp hạng, nhà xã hội học cho hay:
“Trừ tầng lớp lãnh đạo quản lý ra, tầng lớp càng cao có mức chi tiêu tiêu dùng càng nhiều, ví dụ doanh nhân hay tầng lớp chuyên môn cao tiêu dùng rất lớn, nhưng đến nông dân thì tiêu dùng ở mức thấp nhất.”
Chuyên gia trong nước được vấn ý nhân dịp tại Anh mới công bố một xếp hạng phân chia xã hội hiện đại theo bảy nhóm.
Tầng lớp nào ở đáy xã hội Việt Nam?
Đánh giá về các giai tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay, một nhà nghiên cứu xác nhận có tầng lớp dưới đáy và nhóm ‘bấp bênh’.
Đây là các giai cấp: thượng lưu, trung lưu ổn định truyền thống, trung lưu công nghệ, công nhân mới, người lao động truyền thống, nhân viên dịch vụ, phục vụ và giai cấp vô sản bấp bênh.
Các nhà xã hội học tại Anh được BBC đặt hàng làm cuộc điều tra này cho rằng xã hội hiện đại không còn mô hình như chủ nghĩa Marx phân tích chỉ gồm có ba bốn giai cấp: tư sản, trí thức, vô sản…như trước.
Còn ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu nay cũng đưa ra mô hình tháp để chia tầng xã hội thành chín nhóm.
Đó là lãnh đạo quản lý, doanh nhân, chuyên môn cao (hay trí thức), nhân viên, công nhân, buôn bán dịch vụ, lao động tiểu thủ công nghiệp, lao động giản đơn và dưới cùng là nông dân.
Một số nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đều lưu ý về sự chuyển động theo hướng nới rộng trong khoảng cách giữa thu nhập của nhóm giàu và nhóm nghèo ở Việt Nam.
Riêng về mặt địa bàn cư trú tại Việt Nam hiện có khoảng cách nhất định về thu nhập và cơ hội cải thiện chất lượng cuộc sống giữa lao động và cư dân ở đô thị và nông thôn.
Còn về mặt dân số, hiện cũng có xu hướng già đi của người dân, trong khi chưa chắc đã có một mối quan hệ tỷ lệ thuận tương ứng giữa nâng cao cơ hội đào tạo và tỷ lệ tăng trưởng dân số trẻ và nhóm lần đầu tiên gia nhập thị trường lao động.
Ở khía cạnh khác, một số nghiên cứu cho hay có sự suy giảm nhất định về mức “tiêu dùng văn hóa” ở nhiều nhóm dân số, trong đó xuất hiện cả ở nhóm mới giàu lên và nhóm thanh niên xét về hàm lượng và chất lượng văn hóa.
Theo BBC

Từ “Bụi đời Chợ Lớn” nhìn lại cái chết của phim mì ăn liền

Từ “Bụi đời Chợ Lớn” nhìn lại cái chết của phim mì ăn liền


Vừa qua, giới điện ảnh đang hết sức xôn xao quanh sự kiện bộ phim Bụi đời Chợ Lớn chưa kịp phát hành đã bị cơ quan kiểm duyệt “đập” te tua, tuy nhiên, những lý do kiểm duyệt mà Hội đồng Trung ương Thẩm định Phim truyện đưa ra không thuyết phục được công chúng say mê môn nghệ thuật thứ bảy. Nhưng chắc chắn, sẽ lại thêm một phim “made in Vietnam” nữa không thể phục vụ khán giả với tất cả cảm xúc đáng lẽ có. Giọt nước đã tràn ly và giai đoạn bết bát của điện ảnh Việt Nam chưa được vãn hồi. Nhớ lại chặng đường dài trước đây của nó, không biết ai đó từng giật mình nhận ra, giai đoạn phồn thịnh của điện ảnh Việt Nam thường rất ngắn ngủi và hậu thế lại luôn coi các thời kỳ đó là “có vấn đề”. Gần đây nhất (nhưng cũng đã hai thập niên trôi qua rồi) chúng ta chứng kiến sức phát triển vũ bão của PHIM MÌ ĂN LIỀN (khẩu ngữ để chỉ dòng phim thị trường thập niên 1980-1990), mà đến nay chưa hoàn toàn phai nhạt trong ký ức người ái mộ điện ảnh. Vì sao nó “chết” và “chết” như thế nào ?…

http://image1.xahoi.com.vn/news/2013/1/9/giai-nhan-ly-hung.jpg
Bốn gương mặt mĩ nhân của dòng phim mì ăn liền : Diễm Hương, Y Phụng, Việt Trinh, Giáng My.
Điện ảnh Việt Nam khởi phát từ bộ phim đầu tiên mang tên Kim Vân Kiều do học giả Nguyễn Văn Vĩnh sản xuất và phát hành vào khoảng năm 1923 – 1924, nhưng do những hạn chế về nhân lực và khả năng kỹ thuật, bên cạnh đó là biến động lịch sử (chiến tranh, thay đổi chính thể…), cho nên chỉ có khoảng ba giai đoạn lớn mà Điện ảnh Việt Nam thực sự bùng nổ sức phát triển – Đó là thập niên 1950 (Quốc gia Việt Nam), thập niên 1960 – 1970 (Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam), thập niên 1980 – 1990 (Việt Nam đương đại), như thế có nghĩa là rất ngắn ngủi và không xuyên suốt. Nhưng dẫu sao, sự phát triển của điện ảnh trong các thời kỳ này đều do sự cởi mở về tư duy của nhà quản lý và sự tương hỗ của quy luật cung – cầu (có công chúng, có đội ngũ nhà sản xuất và diễn viên hùng hậu, có hệ thống phát hành tốt) ; chưa kể là điều kiện chính trị – xã hội tương đối ổn định. Tuy vậy cũng phải khách quan nhìn nhận rằng, quy mô của Điện ảnh Việt Nam trước nay chỉ ở mức vừa phải, do quá tập trung tại hai đô thị là Hà Nội và Sài Gòn, mặc dù các đô thị khác cũng như một vài khu vực nông thôn không hề thiếu cơ sở phát triển cho điện ảnh, chỉ vì những nơi đó không được quan tâm nâng cao chất lượng.
Dòng phim mì ăn liền xuất hiện khi cuộc Chiến tranh Việt Nam qua đi, hậu quả của nó ít nhiều cũng được khắc phục và trong khoảng đầu thập niên 1980, nền kinh tế bao cấp – tự túc gây tổn hao sức lực và tâm trí người dân, nhu cầu lúc này của họ là được nghỉ ngơi và thư giãn. Những bộ phim khai thác đề tài chiến tranh đã trở nên khuôn phép, sáo mòn mặc dầu kinh phí cũng như kỹ thuật sản xuất không hề thấp kém. Phim mì ăn liền xuất hiện như luồng gió mát thổi vào căn nhà trống, ban đầu chỉ là những cuốn phim gợi nhớ tích truyện đạo đức nhà Phật (Ánh đạo vàng, Đôi mắt Thái tử Câu Na La…) hoặc khai thác tâm lý – tình cảm của những con người nhỏ bé (Con gái ông Thứ trưởng, Lá sầu riêng, Hoa quỳnh nở muộn…), kỹ thuật làm phim cũng như kinh phí sản xuất không cao, nhưng do kịch bản lôi cuốn và diễn xuất tốt, các bộ phim này lôi kéo được khán giả đến phòng chiếu và doanh thu cao hơn mong đợi của nhà sản xuất. Từ đây, cuộc “trường chinh” của dòng phim mì ăn liền bắt đầu và kéo dài cho đến cuối thập niên 1990 !
Website Wikipedia đã thống kê được chừng hơn 100 bộ phim nổi tiếng của dòng phim mì ăn liền – Đây là con số không hề nhỏ để đánh giá một giai đoạn điện ảnh, thậm chí xét dưới góc độ thẩm mĩ thì một số quan điểm trước nay cho rằng dòng phim mì ăn liền “yếu kém về mặt nghệ thuật, chạy theo lợi nhuận” là thiếu khách quan. Tác phẩm nghệ thuật được người nghệ sĩ sáng tạo ra không phải chỉ để lồng khung kính, mà tất yếu ẩn chứa triết lý cuộc đời và phục vụ được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng. “Vị nhân sinh” là nguyên tắc bất di bất dịch để cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, thiếu nó thì chỉ là phiến đất sét vô hình hài ; cho nên cũng không thể có cái gọi là “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhìn lại phim mì ăn liền trước đây, mặc dù kỹ thuật làm phim đương thời còn giản đơn nhưng nó đã có đầy đủ tính cách của một dòng phim thị trường nhanh – mạnh – ổn định, mỗi năm có hàng chục bộ phim được sản xuất trên băng nhựa và băng video, bên cạnh đó là những sinh hoạt hết sức sôi động bên lề mỗi bộ phim – kịch bản hoặc scandal rò rỉ, các minh tinh được ái mộ nhờ nhân cách, tài năng và câu chuyện đời tư của họ luôn được báo giới cũng như công chúng quan tâm… không khác gì thời nay. Cần nhớ rằng, điện ảnh các quốc gia như Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Singapore… lúc đó cũng không hơn Việt Nam ; họ chỉ thực sự tung cánh phát triển vào khoảng cuối thập niên 1990 – khi dòng phim mì ăn liền của Việt Nam chấm dứt và Điện ảnh Việt Nam bắt đầu “thua trên sân nhà”. Ngày nay, Điện ảnh Việt Nam không hề kém cỏi về kỹ thuật sản xuất phim cũng như khâu phát hành, đáng mừng là giới làm phim tràn trề sức sống hơn trước (hệ thống đào tạo điện ảnh đã trở nên phổ thông hóa, luôn cập nhật sâu sát các kỹ năng làm phim và phê bình phim của thế giới ; các hoạt động điện ảnh ngày càng sôi động và quá trình làm phim được tiện lợi hóa nhờ công nghệ số…), nhưng phim ảnh Việt Nam vẫn hết sức èo uột, mỗi năm chỉ vài phim được chú ý và về khía cạnh nào đó thì có thể khẳng định, hoàn toàn thua kém dòng phim mì ăn liền trước đây. Tại sao thế ?
Vốn dĩ, dòng phim mì ăn liền nảy sinh do nhu cầu xã hội, nhưng sự phát triển “thuận buồm xuôi gió” của nó là do nhà sản xuất có uy tín, có chất lượng – thế hệ nhà làm phim như Lê Dân, Lê Hoàng Hoa, Lý Huỳnh, Lê Cung Bắc, Lê Mộng Hoàng… trưởng thành từ cái nôi Điện ảnh Việt Nam Cộng hòa, họ được đào tạo bài bản và đã cọ xát trong môi trường phim ảnh cạnh tranh trước 1975 cho nên có kinh nghiệm cũng như bản lĩnh đương đầu với cơn lốc kinh tế thị trường tự do (khi mà lợi nhuận mang ý nghĩa quyết định) ; thế hệ nhà làm phim sau 1975 như Phan Hoàng, Ngụy Ngữ, Nguyễn Cao Thụy, Cao Thành Danh, Phạm Thùy Nhân, Nhất Phương, Đào Thu, Châu Thổ, Đường Tuấn Ba, Lý Hùng… thì có sức trẻ và biết nắm bắt xu thế thị trường. Yếu tố tích cực tiếp theo là hãng sản xuất, hệ thống rạp chiếu phim cũng như nhà quảng cáo – phát hành có thừa số lượng và chất lượng, từ rất sớm đã cập nhật được kinh nghiệm sản xuất và phát hành phim của Hoa Kỳ, Hồng Kông, Nhật Bản. Một yếu tố quan trọng nữa là diễn viên – những gương mặt như Diễm Hương, Lý Hùng, Lê Công Tuấn Anh, Việt Trinh, Lê Tuấn Anh, Y Phụng, Công Hậu, Mộng Vân, Thu Hà, Hữu Nghĩa, Bảo Quốc, Thương Tín, Nguyễn Chánh Tín… được coi là “thương hiệu bảo chứng” cho doanh thu, mà đến giờ, công chúng yêu điện ảnh vẫn nhắc nhớ với sự ngưỡng mộ, nuối tiếc cũng như xót xa. Cặp đôi Lý Hùng – Diễm Hương thường được xem là hình ảnh biểu tượng của dòng phim mì ăn liền.
Trong vấn đề kịch bản, các nhà biên kịch đã hết sức khai thác thị hiếu cũng như ý tưởng từ mọi lĩnh vực – các câu chuyện dân gian, tích tuồng, giai thoại tôn giáo, tác phẩm văn học và thậm chí các câu chuyện kiếm hiệp vay mượn từ Trung Hoa… bên cạnh đó, cũng không quên xây dựng tuyến nhân vật cũng như tâm lý – tình cảm chắt lọc từ đời sống đương đại. Các bộ phim ăn khách nhất thời kỳ đó là : Áo trắng sân trường, Bên dòng sông Trẹm, Bông hồng đẫm lệ, Cảnh sát đặc khu, Cô thủ môn tội nghiệp, Đôi mắt Thái tử Câu Na La, Em và Michael Jackson, Hồng hải tặc, Kế hoạch 99, Lửa cháy thành Đại La, Ngôi nhà oan khốc, Ngọc Trảng thần công, Người nghèo vẫn cười, Nữ trinh sát đặc nhiệm, Phạm Công – Cúc Hoa, Sau những giấc mơ hồng, Sút… dzô, sút… dzô !, Sơn thần – thủy quái, Yêu nàng hoa hậu, Vĩnh biệt Cali, Vị đắng tình yêu, Tráng sĩ Bồ Đề, Truy nã tội phạm quốc tế, Tây Sơn hiệp khách, Nước mắt học trò… Những tình tiết bi hài, trinh thám, lãng mạn, thần bí… được triệt để tận dụng và nhiều khi hòa trộn vào nhau, tạo ra cảm xúc muôn màu cho mỗi bộ phim. Không chỉ loanh quanh trên lãnh thổ Việt Nam, nhiều nhà làm phim đã biết chủ động hợp tác với các nhà làm phim quốc tế (Hồng Kông, Đài Loan, Hoa Kỳ…) vừa để trao đổi kỹ thuật sản xuất vừa để nhân rộng đối tượng khán giả.
Nhìn chung, chỉ nhặt ra khoảng vài chục bộ phim mì ăn liền cũng có thể đánh giá rằng, chất lượng nghệ thuật của dòng phim này không tồi chút nào, mặc dầu phương tiện kỹ thuật còn thô vụng và kinh phí thường thấp. Từ cái nền tảng đó, nếu biết khai thác thì có lẽ Điện ảnh Việt Nam đã có thể phát triển mãnh liệt vào các giai đoạn kế tiếp – rõ ràng xuất phát điểm của chúng ta không hề thua kém những Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản… Nhưng ác thay, nhìn vào hiện trạng phim ảnh Việt Nam hiện nay, khó lòng tin tưởng nó sẽ phát triển thịnh vượng.
Phải thấy rằng, vào giai đoạn đó việc kiểm duyệt phim không hề gắt gao, có chăng chỉ liên quan đến các phim truyện do Nhà nước trực tiếp bỏ vốn (thường là phim tuyên giáo), chính sách quản lý xã hội nhìn chung cũng rất thoáng. Lối diễn xuất, lời ăn tiếng nói và phục sức của diễn viên khá tự do, thoải mái mặc dù thành kiến xã hội chưa hoàn toàn chấp nhận. Thời kỳ này, việc gây scandal để nổi tiếng là không hề có và các hành vi thóa mạ diễn viên trong công chúng cũng không được hoan nghênh, cho nên giữa nghệ sĩ và người yêu điện ảnh còn có sự tôn trọng lẫn nhau. Cachet mà diễn viên nhận được sau mỗi bộ phim là tùy thuộc doanh thu (tiêu chuẩn để đánh giá khả năng đạo diễn và diễn xuất), chứ không phải do diễn viên cậy nổi tiếng để cưỡng ép nhà sản xuất. Bởi vậy, vào giai đoạn phim mì ăn liền, mặc dầu điện ảnh thăng tiến nhanh nhưng bầu không khí vẫn hết sức lành mạnh.
Xem thêm :
Kiểm duyệt – Vòng kim cô của điện ảnh

Nhật ký mở lại (lần thứ 42): Từ mưu mô, thủ đoạn tinh vi tới công khai, trắng trợn coi thường thiên hạ

…với mình thì mấy chữ “Tinh vi”, Thủ đoạn” đã thật sự không còn tồn tại khi nói tới những con người cộng sản mô đéc đương thời khi bỗng dưng tiếp quản cả một quá khứ mà họ đều mài mãi ra mà ăn, mà nuốt, mà “vỗ ngực ta đây” như những con cháu đích thực của Mác, của Lê, của Mao, của Hồ!…
Ngày 10 tháng 4/2013
TỪ MƯU MÔ, THỦ ĐOẠN TINH VI TỚI CÔNG KHAI, TRẮNG TRỢN COI THƯỜNG THIÊN HẠ!
Không ít người ở vào cái tuổi U80, U90 như mình không sớm thì muộn đã nhận ra:
1-Mình đã ngu đần, mê muội chạy theo một thứ “tín ngưỡng” cực kỳ phản khoa học, phản triết học, phản xã hội học, luân lý học…,phản “tất cả các thứ đã được học”…., khi từ bỏ tất cả: gia đình, hạnh phúc, tiền tài, tương lai để đi “giải phóng loài người, “xây nên một xã hội công bằng không giai cấp, không biên giới…một xã hội mà mọi quyền lợi đều được chia đều, làm tùy sức hưởng theo nhu cầu(!?)…
2-Mình đã không hiểu nổi 4 chữ “đấu tranh giai cấp“, năm chữ “Đoàn kết, đại đoàn kết”, 4 chữ “Người cày có ruộng”, ”vô sản chuyên chính”, ”giải phóng dân tộc” và sau này là “giải phóng miền Nam”,…nó lại mang đến cho nhân loại và dân tộc mình những hy sinh mất mát to lớn đến cả trăm triệu con người như thế!
Tất cả chỉ vì những tên trùm khát máu, khát quyền bính đã giả vờ tuân theo đạo giáo của vài tên Đức, Nga ngông cuồng, tuổi đời còn non choẹt, …mà đã lừa được cả, không những triệu triệu con người đang bị bóc lột tàn tệ đi theo, mà cả những tên tuổi lừng danh thế giới như triết gia Bertrand Roussel, Jean Paul Sartre, danh họa Pablo Picasso, thi sĩ Louis Aragon (đảng viên đảng cộng sản Pháp)…cũng “vì tiếng nói trái tim” mà đi theo nốt!
Cho đến ngày ….mọi thủ đoạn mưu mô tinh vi dần dần xụp đổ thì…than ôi! Nhân loại đã phải cái giá quá đắt! Những tên trùm cộng sản hiện nguyên hình là những tên trùm đồ tể giết người! (kết luận mới nhất của Medvedev, cựu Tổng Thống – đương kim Thủ Tướng Nga)
Riêng ở Việt Nam, khi được chính phủ Trần Trọng Kim chuyển giao chính quyền cho Việt Minh thì cái thủ đoạn tinh vi nhất mà mình bị “mắc lỡm” đó là:
a/ Việc giải tán (giả vờ !) đảng cộng sản, một cái tên mà chính ông Hồ cũng thừa biết là nếu nó còn công khai sẽ chẳng có ma nào công nhận, một chính phủ lâm thời mà ông sẽ thành lập!(Và quả là đúng thế! Mãi tới 1950, mới có đồng chí Mao và sau đó là đồng chí Xịt “đành” công nhận vậy!)
b/ Việc thành lập nên một chính phủ liên hiệp với nhiều đường lối chính trị khác nhau như nước với lửa dưới một cái khẩu hiệu (cũng đại bịp!) “đoàn kết, đại đoàn kết” nhưng ….chính là để bắt đầu ra tay tiêu diệt dần và ngầm mọi tổ chức và con người không cùng một chí hướng!
c/ Đẩy mạnh hoạt động, phát triển tổ chức đảng cơ sở, phân chia rõ ràng người dân ra thành một thiểu số ưu tú thuộc giai cấp “lãnh đạo” cai trị, và “quần chúng bầy đàn” bị trị ….
d/ Đẩy mạnh “đấu tranh giai cấp” ở nông thôn bằng cuộc cách mạng “long trời lở đất” Cải cách ruộng đất với đường lối “dựa hẳn vào bần cố nông tiêu diệt địa chủ, phú nông”…và đặc biệt bằng những hứa hẹn vu vơ: “ruộng đất về tay dân cày”!
Đến đây thì mọi âm mưu xảo quyệt, tinh vi thủ đoạn đã dần lộ rõ! Nhất là sau cải cách ruộng đất chấn chỉnh tổ chức thì cái sự “Tầu hóa” đất nước đã chẳng còn sao giấu nổi!
Tố Hữu, ”nhà thơ quan to cộng sản” cũng đã công khai phơi bầy lòng dạ thủy chung với nước Tầu bằng những câu “nhục thơ” đầy xúc cảm… nô lệ tự hào!:
“Bác Mao nào ở đâu xa
Bác Hồ ta đó chính là…bác Mao!”

Và….những con người “gà mờ chính trị” như mình đã tỉnh người ra ngày càng nhiều …Một số vội rũ bỏ hết những vinh quang “khốn lịn”, vứt bỏ cả những chiến công Điện Biên “chấn động địa cầu” để dinh tê về thành … rồi vô Nam không luyến tiếc!…
Cho nên, sau 1954, về thành phố, mọi chính sách, chủ trương đánh tư sản, diệt “Nhân văn”, “cải tạo trí thức” của họ, đối với bọn mình đều chẳng còn gì là xảo quyệt, tinh vi nữa! Với lòng kiêu hãnh cộng sản, họ trắng trợn, công khai đòi lại ruộng đất chưa ấm tay người nông dân để.. “lùa” họ vào các trại sản xuất gọi là hợp tác xã ….và bắt mọi người phải hô: “Đường lối ăn công chấm điểm, làm ăn tập thể, nghe kẻng ra đồng là …”cực kỳ sáng suốt!”.
Họ cấm tiệt văn chương nghệ thuật trước 45 để thay thế bằng một đống táp nham những thứ gọi là “văn nghệ công nông” viết theo “chủ nghĩa hiện thực (chẳng biết khi nào có) xã hội chủ nghĩa”!?
Họ công khai “răn đe” giới trí thức văn nghệ sỹ bằng những vụ “án” bịa đặt “chống đảng”, ”lật đổ”, tống vào tù những Nguyễn hữu Đang, Trần đức Thảo, Nguyễn mạnh Tường, Trần Dần, Hữu Loan, Phùng Quán, Văn Cao…
Sau này,…tới lúc đưa quân vào miền Nam để “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” (by Lê Duẩn), để tuân lệnh quan thầy cộng sản thế giới nhuộm đỏ nốt phần còn lại của đất nước thì họ luôn trắng trợn tuyên bố:
- Không có chuyện quân miền Bắc xâm nhập miền Nam!
- Đây là nhân dân miền Nam vùng lên diệt quân xâm lược Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai!
Và đến khi chiếm đánh xong miền Nam thì:
- Nhanh chóng sát nhập “chính phủ cách mạng lâm thời” vào với “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” thành cái tên độc nhất vô nhị trên thế giới: “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”…
- Nhanh chóng đổi tên đảng thành Đảng Cộng Sản!
- Không có oong-đơ gì! Không có thảo luận, lấy ý kiến, ý cỏ gì
- Không tế nhị, tế nhất gì với các vị “chính phủ lâm thời” cũng như một số vị “công thần cách mạng” miền Nam mà có tư tưởng hơi “phóng khoáng” bằng cách thẳng tay mời hàng loạt ra rìa ngồi chơi xơi kẹo đắng!
Và với mình thì mấy chữ “Tinh vi”, Thủ đoạn” đã thật sự không còn tồn tại khi nói tới những con người cộng sản mô đéc đương thời khi bỗng dưng tiếp quản cả một quá khứ mà họ đều mài mãi ra mà ăn, mà nuốt, mà “vỗ ngực ta đây” như những con cháu đích thực của Mác, của Lê, của Mao, của Hồ!
Đặc biệt tin tưởng vào sự bất khả đánh đổ được họ khi họ nắm chắc trong tay hơn 3 triệu đảng viên và, một lực lượng võ trang hàng triệu quân dưới quyền chỉ huy của gần ngàn tên tướng của 2 ngành quân đội và an ninh cùng cả một bộ máy truyền thông đặc biệt vì Đảng khổng lồ nhất thế giới, nên họ tha hồ nói ngang nói giọc viết xấu thành tốt viết trắng thành đen cũng chẳng ai có thể cãi lại!
Họ quá tự tôn, tự phụ, tự tin… để có thể đưa ra những điều vô lý như “trái đất hình…vuông” nhưng chắc chắn sẽ được hàng triệu “nhân dân” có cả giáo sư-tiến sỹ, luật sư, nhà khoa học đến ông linh mục, vị sư tăng “được cơ cấu” …hoan nghênh nhiệt liệt!!!
Tóm lại: HỌ NGÀY CÀNG TRẮNG TRỢN, TRÂNG TRÁO TỰ CHO PHÉP MÌNH CHỈ CÓ ĐÚNG! AI BẢO HỌ SAI THÌ…DỜ HỒN!
KHÔNG PHẢN ĐỘNG THÌ CŨNG LÀ…SUY THOÁI!
……….
Chỉ riêng từ cuối năm 2012 đến 4 tháng đầu của cái năm 2013 này, sự trắng trợn trơ tráo của họ đã lên đến đỉnh cao của mọi sự trắng trợn về….lừa bịp!
1- Bắt đầu bằng vụ uống thuốc “phê và tự phê” để ra cái vẻ quyết chữa cái bệnh thoái hóa cực kỳ, ảnh hưởng đến sự tồn vong của đảng họ bằng cái Hội Nghị TƯ 4. Kết quả là: Thành công toàn diện dù chẳng… chết một con sâu bự nào!
2- Trắng trơn nhất là cái chủ trương “góp ý sửa đổi hiến pháp 92”, một việc mà, từ khi có bản hiến pháp 1946 đến nay, qua bốn lần các ông ấy thay đổi những gì, mình chưa hề được tham gia góp ý bao giờ để xây dựng nó vậy mà nay bỗng lại “được” góp ý “sửa chữa” nó!!??
Ngay từ những ngày đầu khi họ có cái chủ trương tốn thời gian và tiền bạc của nhân dân để thu được một kết quả chắc chắn là “99% nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào Đảng quang vinh”! Vì từ xưa đến nay cái chuyện này có ai ngăn cản được họ cứ “tự sướng” khi nói thế bao giờ đâu? Đảng cũng là họ! Quốc Hội cũng là họ! Chính quyền, tòa án cũng là họ tuốt! Điều này cả thế giới biết! Họ cũng biết thế giới biết! Nhưng ai phản đối họ nào? “mình có thế nào thì người ta mới mời mình!!!” ông Tổng bí thư một đảng cộng sản và được tiếp đón như tổng thống một nước nhớn chứ!? Bầu cử quốc hội mà đảng viên chiếm 92%!, Cá nhân thủ tướng, ủy viên Bộ chính trị trúng tới 98,8% số phiếu bầu thì thế giới sao không khâm phục!
“Đảng ta” oách là thế sao bỗng dưng lại chi ra cả trăm tỉ đồng để “xin”ý kiến nhân dân “Có ủng hộ đảng tiếp tục lãnh đạo toàn diện đất nước này không? Và tại sao lại “xì” ra cái trò hề đó vào lúc này?
Cái lý do duy nhất mà mình đã vạch ra, đó là:
Tạo một cơ hội để “rửa mặt” cho đảng họ về những chuyện “bầy sâu không nhỏ” đang đẩy họ đến một hoàn cảnh “tồn tại hay bại vong” …Nghĩa là: ”Có thối tha đấy! Nhưng xem đây, “toàn dân” đang bơm nước hoa cho chúng tôi đây nè!”
- Đừng tưởng bở mà cướp lại “quyền sở hữu toàn dân” về ruộng đất của chúng tao!
- Đừng tưởng rằng đã đến lúc đòi quân đội và công an giã từ câu “còn đảng còn mình” …
- Đừng tưởng bở nghĩ rằng kinh tế nhà nước không còn ghi bằng chữ nghĩa trong bản dự thảo mà vội mừng! Mọi chính sách tái-tái cơ cấu các Vinashin, Vinalines, Vinacomim …đang tiến hành tốt đẹp!
- Hãy nghe đây những con số “có cánh” do tổng cục khống kê nhà nước mới công bố! Tin hay không cũng cóc cần! Còn muốn nghe những bọn thoái hóa thì….”mất hết” có ngày!
Và đây những gì là… “thoái hóa”:

‘Tô son trát phấn con số
Tiến sỹ Quang A cho rằng, “thống kê sai là một cái vòng luẩn quẩn, do nó không được đánh giá đúng nên người làm thống kê ngày càng mai một“.
“Khi người càng mai một, trình độ mai một thì những số liệu đấy lại càng kém chính xác hơn, kết quả có thể lại sai lệch hơn và nó lại dẫn đến những chính sách tồi hơn, và nó lại khuyến khích người ta phải tô son trát phấn để cho số liệu cho nó đẹp.”
“Vòng luẩn quẩn cứ thế là một mối nguy hiểm cho đất nước.”
“…Chừng nào mà còn có cái chế độ độc quyền, hay là cái chế độ toàn trị hết tất cả mọi thứ kể cả thông tin, thì những căn bệnh như thế không bao giờ có thể chữa khỏi được cả….”
…Theo ông Quang A, có một số cách khắc phục tình trạng này, trong đó quan trọng nhất là cơ quan về thống kê phải hoàn toàn độc lập với các bộ phận của cơ quan hành pháp, không bị tác động bởi những vấn đề chính trị hàng ngày…/Tiến sỹ Nguyễn Quang A, trả lời Phỏng Vấn BBC thứ ba, 9 tháng 4, 2013

“Tăng trưởng tín dụng quý I chưa tới1% mà tăng trưởng GDP vẫn gần 5% là điều khó hiểu, chẳng lẽ Việt Nam không cần cung ứng tín dụng vẫn có thể tăng trưởng? - Tiến Sĩ Lê Đăng Doanh nói trong “Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân” tại Nha Trang, tháng 4/2013
Truyền thông trong nước cũng dẫn lời chuyên gia kinh tế Bùi Trinh trong diễn đàn, rằng: “dư nợ tín dụng tháng 3 không đáng kể, nhưng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước lại tăng tới 11%, vậy “doanh nghiệp lấy vốn ở đâu trong khi phần lớn doanh nghiệp đều lệ thuộc vào vốn ngân hàng”.?

Vậy thì ai lừa bịp trắng trợn? ai thật thà thẳng thắn?
Và đây! Những truyện “siêu trắng trợn” mới toanh:
Vừa hôm qua mình được nghe trên Tivi 1 cái tin “dựng đứng không biết xấu hổ”: “Cả nước đã có 20 triệu ý kiến góp ý sửa đổi hiến pháp….” Và mình rất phục dân mạng đã tính cụ thể ra rằng thì là: nếu cử 5 người, mỗi ngày làm việc 8 giờ để đọc và thống kê ra xem ai đồng ý ai không đồng ý thì cần phải một thời gian là 160 năm!
Ấy vậy mà ngay hôm sau, người ta lại trắng trợn đưa ra những con số “không tưởng” mới: Riêng tỉnh Bình Dương Đương đã nhận được…44.000.000 ý kiến!? (trong khi Cả nước chính thức có 87,84 triệu người –đang tuổi lao động: 46,48…triệu!!!)
Đúng là… thượng đế cũng phải cười về cái trò quá ngu đần và khinh thường quần chúng bằng những màn tuyên truyền “siêu trắng trợn” này!
Vậy thì tại sao họ lại “thoái hóa” đến mức không cần biết gì là phải- trái, đúng-sai cả nữa thế?
Tại sao những kẻ ăn cắp dám công khai xây lâu đài giữa phố, một tên công an phường quèn dám đàng hoàng sở hữu cả một khách sạn 7 tầng ở quận Cầu Giấy – Hà Nội, một tên cán bộ quèn dám công khai đứng tên hàng trăm mét vuông đất, hàng loạt nhà và vài chíếc ô-tô “xịn”, một cán bộ hạng bét, con quan tỉnh mà sở hữu cả một khu vườn cây gỗ quý hàng ngàn mét vuông, có nhà nghỉ với cột dát vàng, một tên chủ ngân hàng sau khi xây cho mình một lâu đài độc nhất vô nhị, lại dám bỏ tiền (của ai không biết?) xây hàng loạt chùa cổ có gắn tên mình và làm cả tượng đài toàn gia đình mình ngay chính điện! (chuyện phổ biến ở các địa phương VN hiện nay).
Và đây là cái chùa “thờ sống” bố con nhà Trầm Bê ở Trà Vinh công khai, trắng trợn và ngồi xổm lên dư luận.
 Hình ảnh gia đình ông Trầm Bê thượng ngay chánh điện chùa Phnô-đung – Ảnh: Sơn Lâm, nguồn ảnh và chú thích của Tuổi Trẻ 11/4/2013
Và cũng chính hôm nay đây! Ở trung ương, kẻ cướp đất, phá nhà anh Vươn thì bị “kỷ luật nghiêm minh” bằng án…treo (nghĩa hỏng bị gì hết)! Còn người nông dân cần cù sản xuất, lao động lấn biển nhiều năm gian khổ thì bị mất của, mất nhà và xuýt mất mạng nữa…thì cả nhà lãnh 16 năm tù, trong 1 “vụ án” mà họ hô hê là “giết người” mà lại không có 1 ai chết cả???!!!
 …cần cù sản xuất, lao động lấn biển nhiều năm gian khổ làm chi để bây giờ ngồi tù…
Còn cả trăm lời tuyên bố ngược ngạo, bịa đặt, không biết ngượng là gì của những nhân vật mà lời nói đáng ra phải nặng ngàn cân.
Như chuyện vừa nói không tăng giá xăng thì ba hôm sau tăng một phát gấp 3 lần tăng trước!
Hoặc để tìm cách bảo vệ cho ý kiến của mình, một vài ông tiến sỹ “lói ngọng” đã vu cáo cho hàng loạt nước đa đảng là cũng chỉ có…một đảng như ta! v.v… và v.v…
Trắng trợn và thách thức dư luận đến thế mà vẫn lên lớp cho người Mỹ: Cần xét lại nhận thức về nhân quyền!
Nghe mà chướng tai, đọc mà gai mắt quá!
Muốn kêu trời: Bao giờ? Biết đến bao giờ? Hơn 80 triệu dân ngoài đảng mới biết phận mình bị coi khinh hơn con lừa, con ngựa mà tỉnh ra, vùng dậy đứng lên đòi nợ đây?
Nghĩ đến cái thân tàn sức kiệt của mình mà thấy xấu hổ với cha ông với tổ tiên nòi giống quá chừng!
Theo Blog Nhát Sỹ báo thù.